Khúc ca đồng đội

15/01/2009 22:42 GMT+7

Thay mặt thế hệ chúng tôi, những đồng đội đã ngã xuống dưới bóng chiều Preach Vihear, dưới chân tượng Apsara nhạt nhòa rêu xám..., nhà thơ Phạm Sỹ Sáu vừa được Hội nhà văn của ba nước Đông Dương trao giải thưởng Sông Mê kông lần thứ 2.

Ba mươi năm trước trong đội quân tình nguyện Việt Nam đặt chân lên đất nước Chùa Tháp, giải phóng nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, các nhà thơ bước ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ như Thu Bồn, Nguyễn Đức Mậu, Văn Lê, Anh Ngọc, Trần Thế Tuyển, Ngân Vịnh... đã kịp thời có mặt để viết lên những khúc ca mới từ chiến trường mới.

Nhưng nếu ngày ấy không có những cậu tân binh non choẹt vừa rời ghế nhà trường bước vào cuộc chiến, trực tiếp cầm súng như Thành Nguyễn, Phạm Sỹ Sáu ở Quân khu 7; Lê Mạnh Tuấn, Huỳnh Kim ở Quân khu 9; Lê Minh Quốc, Đoàn Tuấn ở Quân khu 5... thì chắc chắn mảng thơ ra đời từ chiến trường Tây Nam sẽ kém đi sức sống chân thực. Bởi thế hệ chúng tôi đứng trong cuộc chiến, chứ không phải đứng ngoài quan sát, tìm chất liệu và cảm hứng để viết.

Thế hệ tân binh chúng tôi đem lại gì cho thơ? Có nên đặt câu hỏi ngoa ngôn như thế chăng? Thưa, nhà thơ Chế Lan Viên từng khẳng định: "Khi anh Sáu viết: "Trăng dựng trên đầu/Như theo ta vào chiến dịch/Và trận mưa cối địch/Khi vầng trăng còn lơ lửng ở sườn tây..." thì anh lính ấy là nhà thơ đem đến cho ta vầng trăng mới". Qua thơ, anh Sáu đã dựng lên hình ảnh mới về người lính trong cuộc chiến tranh Tây Nam.

Thế hệ chúng tôi nhập ngũ từ năm 1977, ngay sau khi đất nước vừa hòa bình được hai năm. Tâm trạng của người ra tiền tuyến trong thời điểm này khác với thời chống Mỹ, nói như anh Sáu, đó là những năm tháng "Đất nước mình: hòa bình và súng nổ". Hơn nữa, khi nhập ngũ chúng tôi đã được trang bị một ít kiến thức học ở nhà trường miền Nam, do đó, cái nhìn về chiến tranh cũng khác thế hệ trước... Theo tôi, đó là yếu tố thi vị hóa cuộc chiến, theo kiểu thư sinh hơn là chỉ thấy rặt một gam màu gian khổ. Điều này, ta có thể thấy rõ trong thơ Phạm Sỹ Sáu, tiêu biểu là bài Hành tráng sĩ mới. Anh viết: "Trận tiền chừ là nơi súng nổ/Cung kiếm chừ là khẩu A.K/Chung rượu chừ tráng sĩ không say/Lòng say con mắt ai/ Tráng sĩ lên đường hành trang trên lưng/Nặng gánh giang san lòng cứ bâng khuâng/Tráng sĩ chừ hề áo xanh nón cối/Ống tên không còn, cái bình đong lủng lẳng thắt lưng...".

Từ tập thơ Ra đi từ thành phố, Khúc ca vào chiến dịch đến Điểm danh đồng đội của Phạm Sỹ Sáu, ta thấy bàng bạc các địa danh, những trận đánh, những ngày luồn rừng tải lương, gánh đạn... cuồn cuộn chất liệu sống. Nếu không thật sự "dám sống" thì anh Sáu không thể viết một cách rất lính, rất đời như: "Chiều khô như cái bình tông/Không một giọt nước thấm trong cổ gầy"; "Khi chiếc lá trên cành cháy vàng rơi rụng/Lá lót nệm anh nằm là lá cũng mùa khô"...

Vào tháng 2.2009 tới, khi anh Sáu sang Campuchia nhận giải thưởng Sông Mê kông, thì Đoàn Tuấn và tôi cũng có mặt. Hành trang đem theo chỉ là tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc của tôi in chung với Tuấn và tập Khúc ca đồng đội vừa mới in của anh Sáu. Chúng tôi đem theo và đọc tại chiến trường cũ trong tâm thế mà mình từng tâm niệm: "Những câu thơ mặc áo lính/Đồng phục xanh màu lá rừng/Đến với những người ra trận/Như quàng khẩu súng sau lưng".

Lê Minh Quốc

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.