Chân trần, chí thép - Lời tiên tri của Peter Dewey

18/04/2011 23:24 GMT+7

(Sách của cựu trung tá thủy quân lục chiến Mỹ James G.Zumwalt - con trai Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Việt Nam Elmo R.Zumwalt; First News ấn hành tại VN)

Cái chết của bất kỳ người lính nào đang phụng sự tổ quốc là một bi kịch cá nhân, nhưng mất mát nhân mạng đầu tiên của nước Mỹ tại VN là, xét trên nhiều phương diện, một bi kịch quốc gia. Đó là một bi kịch quốc gia báo hiệu cho “sự khởi đầu của điểm khởi đầu” trong hành trình của nước Mỹ tới vũng lầy Đông Nam Á. Đó là bi kịch của một lời cảnh báo bị rơi vào quên lãng: lời cảnh báo mà một người lính đầy trách nhiệm đã cố gắng đưa ra trước khi ngã xuống.

Vào thời điểm mà Chiến tranh thế giới II phát khởi tại châu u, một loạt cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ của người VN chống lại giới chủ thực dân đã nổ ra. Khi Paris rơi vào tay Đức năm 1940, sự kiểm soát của người Pháp đối với VN cũng lung lay.

 
Trung tá Peter Dewey 

Nhật Bản đã tận dụng sự lụn bại đó của Pháp. Họ chiếm ngay vùng bắc Đông Dương, dưới danh nghĩa là được người Pháp “chuẩn thuận” nhưng, trên thực tế, người Pháp không đủ khả năng ngăn cản (vào ngày 29.7.1941, Pháp và Nhật ký Hiệp ước phòng thủ chung tại Đông Dương thuộc Pháp cho phép quân Nhật sử dụng hầu hết các sân bay và cảng biển quan trọng ở VN. Văn kiện này chính thức công nhận sự hiện diện quân sự của Nhật Bản trên toàn Đông Dương). Tuy nhiên, tới tháng 8.1944, Đồng Minh sắp sửa giải phóng Paris. Nhận thấy những ngày chiếm đóng với danh nghĩa được Pháp “chuẩn thuận” đang sắp kết thúc, Tokyo một lần nữa ra tay. Tháng 3.1945, Nhật giải tán Chính phủ Pháp ở Đông Dương, tuyên bố VN “độc lập”.

Người VN nhận thấy mình chỉ là con tốt trong bàn cờ mà người Nhật đang chơi để hợp pháp hóa sự chiếm đóng. Họ cũng biết rằng, với khả năng quân Nhật sắp bại vong, người Pháp sẽ sớm tìm cách tái áp đặt sự kiểm soát đối với VN. Từ góc độ của người VN, tuyên bố của Nhật Bản có nghĩa là giờ đây họ phải đối mặt với hai kẻ ngoại xâm chứ không chỉ một.

Ngày 7.5.1945, Đức đầu hàng Đồng Minh. Chiến tranh kết thúc ở châu u, quân Đồng Minh hướng tới việc tung ra một đòn quyết định cuối cùng nhằm đánh bật Nhật Bản ra khỏi cuộc chiến. Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS), tiền thân của Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA), lập các chiến dịch để hỗ trợ nỗ lực này.

Tháng 7.1945, OSS phát động một chiến dịch nhằm hỗ trợ lực lượng Việt Minh của Võ Nguyên Giáp đánh Nhật. Một đơn vị OSS có mật danh “Con Nai” nhảy dù xuống khu căn cứ trong rừng của ông Giáp ở miền Bắc VN. Ngay sau khi gặp ông Giáp và bàn luận phương thức trợ giúp, nhóm Con Nai lên kế hoạch dùng máy bay thả đạn dược và vũ khí xuống khu căn cứ trong rừng. Họ cũng bắt đầu huấn luyện chiến thuật và sử dụng vũ khí cho đội quân của ông Giáp. Chẳng bao lâu, Việt Minh và các binh sĩ Mỹ đã chiến đấu bên nhau, thực hiện một loạt cuộc công đồn Nhật.

Ngày 24.7.1945, Tổng thống Truman và những lãnh đạo khác của phe Đồng Minh tham dự Hội nghị Potsdam để, cùng với nhiều chủ đề khác, bàn luận về số phận của VN sau khi Nhật Bản bại trận. Họ quyết định rằng nên lấy vĩ tuyến 16 để chia VN ra làm hai, với Trung Quốc kiểm soát miền Bắc, Anh kiểm soát miền Nam. Chưa đầy một tháng sau, vào ngày 14.8.1945, Nhật đầu hàng, và chính thức tuyên bố đầu hàng vào ngày 2.9. Như đã thống nhất tại Potsdam, Trung Quốc và Anh tiến vào Hà Nội và Sài Gòn.

Giữa lúc quân Anh do trung tướng Douglas D.Gracey tiến vào Sài Gòn, một nhóm OSS khác do trung tá Lục quân A.Peter Dewey, 28 tuổi, chỉ huy được điều tới hỗ trợ. Tới nơi vào ngày 4.9, nhiệm vụ của nhóm là giải thoát cho quân nhân Đồng Minh đang bị bắt làm tù binh và tìm kiếm người Mỹ mất tích. Dewey rất hợp với nhiệm vụ này. Ông có nhiều phẩm chất và kỹ năng tốt, trong đó có việc nói tiếng Pháp trôi chảy. Trớ trêu thay, khả năng nói tiếng Pháp trôi chảy rốt cuộc đã góp phần dẫn tới cái chết của ông.

Trong khi Dewey là một sự lựa chọn tốt để đại diện cho Mỹ tại VN, thì Gracey lại không phải là một sự lựa chọn tốt để đại diện cho Anh. Từng đối mặt với người dân thuộc địa trong phần lớn binh nghiệp, Gracey không mấy thiện cảm với họ. Ông được lệnh giữ lập trường trung lập về chính trị trong vấn đề độc lập của VN trước sự kiểm soát của người Pháp. Tuy nhiên, mối cảm tình mà Gracey dành cho Pháp rốt cuộc đã giúp họ tái lập sự kiểm soát tại phần lớn miền Nam VN.

Gracey cũng được lệnh giải giới quân Nhật và duy trì trật tự tại Sài Gòn. Nhưng ngay lập tức ông đã thực hiện một loạt hành động cực kỳ thiếu tế nhị. Đầu tiên, khi ông Hồ Chí Minh gửi phái đoàn từ Hà Nội vào gặp Gracey, vị tướng Anh đã đường đột tống khứ họ. Thứ hai, ông áp dụng thiết quân luật đối với người VN, lựa chọn lính Pháp và tù nhân Nhật Bản được giải phóng để thực thi thiết quân luật.

Dewey rất lo ngại về các kế hoạch mà Gracey đang tiến hành cũng như sự thiếu tế nhị của ông này đối với người VN. Ông thấy Gracey đang hướng tới một thảm họa, thổi bùng thêm ngọn lửa thù hận trong lòng người VN nhằm vào phương Tây. Rõ ràng Dewey và Gracey đang nhìn vào VN từ hai góc độ khác nhau. Dewey liên tục gửi báo cáo về Washington chỉ trích vị tư lệnh người Anh. Đáp lại, Gracey đã lệnh cho Dewey rời VN.

Dewey mới chỉ tới VN được ba tuần - nhưng chừng đó cũng đủ ông hình thành một niềm tin mạnh mẽ. Ông tin rằng bất cứ quốc gia nào rắp tâm chiếm đóng VN hoặc tự ý duy trì sự hiện diện ở đây sẽ phải chuốc lấy tai ương. Đó là niềm tin mà Dewey đã nêu rõ trong bản báo cáo cuối cùng gửi về Washington trước khi ông ra đi. Trong báo cáo, ông đã tiên tri:

“Nam Kỳ đang bốc cháy; người Pháp và Anh sẽ bị kết liễu tại đây, và chúng ta phải chạy khỏi Đông Nam Á”.

Sự ra đi của Dewey được Stanley Karnow ghi lại trong cuốn sách của mình - VIỆT NAM: MỘT LỊCH SỬ:

“Rạng sáng 26.9.1945, Dewey tới sân bay Sài Gòn cùng một đồng nghiệp (người Pháp), đại úy Herbert J.Bluechel, nhưng máy bay hoãn chuyến. Sau đó, họ trở lại ngay trong buổi sáng để kiểm tra lịch bay; Dewey ngồi sau vô - lăng xe Jeep - vốn bị Gracey cấm treo cờ Mỹ với lý lẽ rằng chỉ có ông ta (Gracey), trong vai trò tư lệnh khu vực, mới có quyền treo cờ trên xe... Đột nhiên, ông thấy một mớ cây bụi nằm chắn giữa đường. Ông giảm tốc độ và chạy vòng để lách qua chướng ngại vật, chợt phát hiện ba người Việt Nam đứng ở rãnh mương bên đường. Ông chửi họ bằng tiếng Pháp. Tưởng rằng ông là sĩ quan Pháp, họ đáp trả bằng một tràng súng máy làm bay mất phần sau hộp sọ của  ông...”.

Người Pháp đổ lỗi cho Việt Minh gây ra cái chết này; Việt Minh lại đổ lỗi cho người Pháp và Anh. Ông Hồ Chí Minh, sau khi biết tin về sự vụ ấy, đã viết thư cho Tổng thống Truman để chia buồn.

Thật trớ trêu, người đầu tiên tiên đoán được sự can thiệp của Mỹ vào VN là một thảm họa cũng trở thành người Mỹ đầu tiên thiệt mạng vì chủ trương can thiệp sâu của nước này. Cái chết của trung tá Dewey có thể xuất phát từ một nhầm lẫn không may, nhưng nó đã tạo ra một bước ngoặt trong tiến trình Mỹ can dự vào Đông Nam Á. Khi mà Washington tiếp tục tiến đến vũng lầy, hàng loạt sai lầm trong hoạch định chính sách đã nảy sinh, đẩy người Mỹ lún sâu vào. Việc Mỹ không rút quân khi mà viễn cảnh chiến thắng tắt ngấm rốt cuộc đã khiến có thêm hàng ngàn binh sĩ hai phía thiệt mạng.

Dewey là người có viễn kiến vĩ đại. Hai mươi năm trước khi người lính thủy quân lục chiến đầu tiên đặt chân xuống Đà Nẵng, ông đã xác quyết rằng Mỹ không nên can thiệp quân sự vào VN. Nếu còn sống vào năm 1995 khi Tổng thống Clinton quyết định bình thường hóa quan hệ hai nước, Dewey chắc hẳn rất ủng hộ việc tái thiết mối quan hệ với VN theo sau cuộc chiến tranh vốn dĩ đã biến đồng minh một thời thành kẻ thù không đội trời chung.

Đỗ Hùng
(dịch và giới thiệu)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.