“Dính” viêm gan C, ai cũng phải chữa?

05/05/2010 11:04 GMT+7

Bệnh nhân bị viêm gan siêu vi C thường rất sợ chuyển sang xơ gan, ung thư gan. Vì thế, ai cũng muốn được điều trị. Còn bác sĩ biết là điều trị không hiệu quả nhưng vẫn bảo bệnh nhân phải điều trị!

Bà Vũ Thị Thu Hà (Q.3, TP.HCM) cho biết giữa tháng 6-2009, chồng bà là ông H.V.T. được bác sĩ của một bệnh viện chẩn đoán viêm gan C type 6. Bác sĩ này nói ông T. phải chích và uống thuốc một năm. Điều trị được sáu tháng thì sức khỏe ông T. suy sụp hẳn, yếu sức, mệt mỏi, ăn không được, lở loét khắp người... Ngày 13-1-2010, sau mũi chích của tháng thứ bảy ông T. cảm thấy rất khó chịu, sau đó sốt, ớn lạnh, ói liên tục phải đi cấp cứu. Sau một tháng cấp cứu, điều trị ở nhiều bệnh viện, ngày 16-2 ông T. qua đời ở tuổi 64.

Cân nhắc khi điều trị

TS.BS Trần Tịnh Hiền - nguyên phó giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM - cho biết không phải bệnh nhân nào bị viêm gan C cũng phải điều trị. Trước khi quyết định có điều trị hay không, bác sĩ phải cho bệnh nhân xét nghiệm nồng độ siêu vi C trong máu, xác định xem siêu vi C thuộc type di truyền nào (có sáu type khác nhau).

Ngoài ra, bệnh nhân cần phải được sinh thiết gan (đặc biệt là bị viêm gan type 1) để xác định mức độ hư hại của gan, giai đoạn bệnh. Kết quả sinh thiết sẽ giúp bác sĩ quyết định và đánh giá hiệu quả điều trị cho bệnh nhân chính xác nhất.

Tuy nhiên, tại VN đa số bệnh nhân không được sinh thiết gan trước khi điều trị. Vì vậy, nếu chỉ xét nghiệm thấy nồng độ virus cao, xác định type nào rồi cho bệnh nhân điều trị ngay là chưa đúng.

Về nguyên tắc, trước khi điều trị bác sĩ phải tư vấn cho người bệnh biết việc điều trị có lợi, hại thế nào cho sức khỏe. Bệnh nhân phải được biết bệnh của họ điều trị trong bao lâu, điều trị như thế nào, cần chuẩn bị bao nhiêu tiền (do chi phí điều trị tốn kém hàng trăm triệu đồng, bỏ nửa chừng sẽ làm siêu vi C ngày càng kháng thuốc), chuẩn bị tinh thần, tâm lý để điều trị, nhất là khi bị tác dụng phụ của thuốc.

Trường hợp bệnh nhân gặp phản ứng trầm trọng do thuốc phải ngưng điều trị ngay. Nếu bác sĩ vẫn cố điều trị, thay vì phải 10-20 năm nữa bệnh nhân mới chết vì viêm gan C thì lại chết ngay vì phản ứng phụ của thuốc.

Theo TS Tịnh Hiền, việc điều trị cũng phải xem xét cụ thể trên từng bệnh nhân, bởi phác đồ phối hợp hai loại thuốc đặc trị hiện nay là thuốc Interferon (chích) và Ribavirin (uống) có rất nhiều phản ứng phụ. Interferon khiến người bệnh có thể mệt mỏi, chán ăn, ói mửa, rụng tóc... Ribavirin có thể gây ho, khó thở, ngứa, nổi ban đỏ ngoài da, mất ngủ, thiếu máu (các tác dụng phụ này sẽ hết sau khi ngưng điều trị).

Vì vậy, bác sĩ phải cân nhắc xem bệnh nhân bao nhiêu tuổi, thể trạng thế nào (người mập, uống rượu nhiều có nguy cơ biến chứng nhiều hơn), nồng độ siêu vi C bao nhiêu, có bệnh lý khác (tim mạch, tiểu đường...) kèm theo không, khả năng kinh tế thế nào (do thuốc mắc tiền, điều trị kéo dài). Nếu người bệnh đã 60-70 tuổi, đang khỏe mạnh, đi đứng bình thường, xét nghiệm thấy có siêu vi C nhưng nồng độ không cao lắm, men gan chưa có vấn đề gì thì không nên điều trị. Vì khi mắc bệnh cũng phải 20-25 năm sau bệnh nhân mới có thể chuyển qua xơ gan.

Khi có chỉ định điều trị, bác sĩ phải theo dõi, đánh giá hiệu quả điều trị cho bệnh nhân qua xét nghiệm nồng độ virus trong máu định kỳ vào các tuần thứ 12, 24, 48 và 72. Ví dụ, bệnh nhân bị viêm gan C type 1, đã điều trị đến tuần 24 nhưng nồng độ virus trong máu không giảm thì phải ngưng điều trị, vì có điều trị cũng không giúp được gì hơn cho người bệnh mà còn làm họ thêm mệt mỏi, lo lắng, tốn kém tiền bạc vô ích. Với những bệnh nhân này, khi ngưng điều trị cần được theo dõi xơ gan, ung thư gan định kỳ theo hướng dẫn của bác sĩ.

Kết hợp đông y

Bác sĩ Lê Văn Hải - trưởng khoa khám bệnh Viện Y dược học dân tộc TP.HCM - cho biết tại VN bệnh nhân bị viêm gan siêu vi C type 1, 2, 3 là nhiều nhất. Trong đó, siêu vi C type 1 khó điều trị nhất vì cấu trúc di truyền của loại siêu vi C này đã kháng thuốc đặc trị viêm gan C hiện nay là Interferon. Cần lưu ý nếu bệnh nhân đã chớm bị xơ gan giai đoạn đầu thì không được chích Interferon, vì thuốc sẽ khiến bệnh nhân chuyển hẳn qua xơ gan nhanh hơn.

Theo bác sĩ Lê Văn Hải, sau đợt trị liệu bệnh nhân viêm gan C có thể khỏi bệnh trong vòng 6-12 tháng hoặc nhiều năm sau đó. Tuy nhiên, họ vẫn có thể bị tái nhiễm bởi chính con siêu vi C cũ hoặc nhiễm siêu vi C type khác, thậm chí có bệnh nhân còn đồng nhiễm hai type siêu vi C khác nhau do thuốc không thể điều trị đặc hiệu cho tất cả các type siêu vi C. Cũng cần lưu ý đặc điểm của siêu vi C là thường xuyên biến đổi qua mỗi lần sinh sản ra siêu vi mới, vì vậy đến nay vẫn chưa có thuốc chủng ngừa có thể nhận dạng và tiêu diệt được các siêu vi này.

Hiện nay Viện Y dược học dân tộc TP có nhận điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi C bằng hai loại thuốc đông y kết hợp là diệp hạ châu và viên nhung nai. Nghiên cứu bước đầu của viện trên thực tế bệnh nhân cho thấy hai loại thuốc này có khả năng ức chế siêu vi C phát triển nhờ tăng cường các tế bào miễn dịch đặc hiệu CD4, CD8 cho bệnh nhân giống như cơ chế của thuốc Interferon.

Giá hai loại thuốc đông y so với Interferon và Ribavirin rẻ hơn nhiều lần, ít tác dụng phụ và còn giúp nâng đỡ thể trạng cho bệnh nhân. Ngoài ra, bệnh nhân đang điều trị thuốc tây vẫn có thể điều trị kết hợp thuốc đông y để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.

Bác sĩ Lê Văn Hải khuyên bệnh nhân viêm gan C cố gắng giữ tinh thần thoải mái, không bị stress; thường xuyên tập thể dục thể thao; ăn uống đạm bạc (không nên ăn một thứ quá nhiều), hạn chế dầu mỡ, nên ăn nhiều rau xanh, trái cây; không uống rượu, bia, hút thuốc lá... Nếu bệnh nhân có cuộc sống tinh thần lạc quan, hoạt động thể lực tốt, ăn uống hợp lý sẽ giúp hệ miễn dịch của cơ thể hoạt động tốt hơn. Nếu thiếu ba yếu tố này, thuốc cũng không giúp được gì nhiều cho người bệnh.

Theo Tuổi Trẻ

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.