Huyền thoại đường trên biển - Kỳ 5: Những vị khách đặc biệt

18/09/2011 17:33 GMT+7

14 năm hoạt động (từ 1961 - 1975), trên các chuyến đi “xẻ dọc biển Đông” của những con tàu không số còn có hàng ngàn vị khách, đó là các sĩ quan quân đội đi chiến trường; cán bộ các bộ, ngành, hội đoàn đi xây dựng vùng giải phóng.

>> Kỳ 4: Người thay đổi gương mặt và những chuyến tàu công khai

Trong số hàng ngàn người đó, có những vị khách rất đặc biệt:  Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh và bà Nguyễn Thụy Nga (tức Bảy Vân, người vợ miền Nam của ông Lê Duẩn). Ngoài ra còn có bác sĩ Bảy Thủ, Bộ trưởng Bộ Y tế Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam; Nguyễn Thiện Thành, giáo sư - bác sĩ Bệnh viện Thống Nhất... Các vị khách đặc biệt này đi vào Nam bằng tàu không số, trong thời gian biển Đông bị tàu chiến, máy bay Hạm đội 7 của Mỹ và hải quân Sài Gòn phong tỏa dữ dội nhất.


Ông Võ Văn Kiệt - Ảnh do ông Vĩnh Mẫn cung cấp

Có lẽ người  phụ nữ Việt Nam vào Nam bằng tàu không số sớm nhất là bà Nguyễn Thụy Nga, lên đường vào ngày 5.1.1965.

Chuyến tàu không số ấy mang bí danh 69 do thuyền trưởng Nguyễn Hữu Phước quê ở Long Thạnh, Bạc Liêu chỉ huy. Đi cùng bà Nguyễn Thụy Nga còn có 4 đại tá quân đội và nhiều tấn vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Lịch trình là 7 ngày, nhưng lệnh từ trung ương là nếu Hạm đội 7 Mỹ chặn đường thì phải quay lại. Đã 3 lần chỉ huy sở gọi lại, nhưng may chỉ phải dừng ở đảo Hải Nam  một lần. Sau chuyến đi nhiều sóng gió, tàu đã cập bến an toàn.

Theo ấn phẩm Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển sắp xuất bản, ngày  9.7.1973, tàu chở ông Sáu Dân (Võ Văn Kiệt), lúc đó là Bí thư Khu ủy Quân khu 9, từ miền Bắc trở lại Nam Bộ. Sau khi được tàu của Đoàn 125 chở từ Hải Phòng sang đảo Hải Nam, ông Sáu Dân chuyển sang chiếc thuyền đánh cá SG159 của Đoàn 371 do Thôi Văn Nam làm thuyền trưởng. Vì chở “khách đặc biệt” nên trong chuyến này có cả Tư Mau, Đoàn trưởng 371, cùng đi. Tới vùng biển Cam Ranh  thì thuyền bị rò nước  phải ghé vào Cà Ná để sửa chữa. Trong vai  một thương gia ở miền Nam, ông Sáu Dân cùng “đội thuyền đánh cá” có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, nên sau khi sửa xong, con tàu tiếp tục hành trình về cập bến Vàm Hố ở Cà Mau an toàn.

Cuối tháng 11.1973, Đoàn 371 được giao nhiệm vụ chở ông Sáu Nam (tức Lê Đức Anh), lúc đó là Tư lệnh Quân khu 9, từ Nam Bộ ra miền Bắc công tác. Đây là một chuyến đi vô cùng gian khổ và trắc trở, suýt không thành.

Để an toàn, Đoàn 371 đã bố trí hai con tàu cùng đi, do Đoàn trưởng Tư Mau trực tiếp chỉ huy, ông Lê Đức Anh đóng vai người phụ bếp. Thuyền SG159 chở ông Lê Đức Anh và Tư Mau do thuyền trưởng Thôi Văn Nam điều khiển. Thuyền SG158 làm nhiệm vụ hộ tống do Nguyễn Sơn làm thuyền trưởng cùng với 5 thuyền viên. 18 giờ ngày 26.11, hai thuyền rời bến Vàm Hố (Cà Mau) ra khơi. Đêm đến, gặp sóng gió lớn, thuyền SG159 bị sự cố nước tràn vào nhiều. Để đảm bảo an toàn, Tư Mau báo cáo và đề nghị ông Lê Đức Anh chuyển sang tàu SG158. Còn Đoàn trưởng Tư Mau ở lại thuyền cùng anh em vừa bơm vừa tát nước ra. Trưa ngày 27.11, khi thuyền ở ngoài khơi tỉnh Trà Vinh, mọi người thấm mệt, nước vào ngày càng nhiều. Không thể khắc phục được, Đoàn trưởng Tư Mau đành ra hiệu cho  tàu của Nguyễn Sơn cập mạn để mọi người chuyển qua thuyền SG158. Còn thuyền SG159 không người lái, nước vào đầy, chìm dần xuống biển. Thuyền SG158 cũng bị rò nước, nhưng ít hơn. Người thì đông mà thuyền chỉ có một chiếc. Chi bộ hội ý quyết định 5 người ở lại, những anh em khác tiếp tục đưa ông Lê Đức Anh ra Bắc. Thế là phải ghé vào bãi ngang Long Hải (Vũng Tàu) để sửa chữa thuyền và đưa bớt người lên bờ.


Ông Lê Đức Anh tại Lộc Ninh (thứ hai từ phải sang) - Ảnh: Tư liệu

Ngày 3.12.1973, một cán bộ của đoàn là Ba Tam phản bội, chỉ điểm cho địch đến phá tan các cơ sở hoạt động công khai của Đoàn 371. Ba Tam còn khai với địch là tàu của Công ty Việt Long (vỏ bọc của Đoàn 371) đang chở ông Sáu Nam và Tư Mau ra biển. Hơn trăm người bị bắt, địch thu giữ toàn bộ nhà, xe, tài  sản của Đoàn 371 ở Sài Gòn. Nhằm tìm ra tung tích của Tư Mau và Sáu Nam, địch tra tấn anh em rất dã man. Không ai dặn trước, tất cả đều khai là Tư Mau và Sáu Nam đi về miền Tây Nam Bộ để đánh lừa sự truy tìm của địch. Sau đó, khi biết là thuyền của ta ra Bắc, địch cho tàu hải quân chặn bắt thuyền chở “đầu sỏ Việt Cộng”, nhưng đã muộn. Lúc đó, ngày 6.12.1973, thuyền chở ông Sáu Nam đã đến ngang Nha Trang, cách đất liền 170 hải lý. 17 giờ ngày 8.12, SG158 tới cảng Hậu Thủy, Hải Nam, Trung Quốc. Ngày 11.12, tàu của hải quân đưa ông Sáu Nam và Tư Mau về miền Bắc Việt Nam trong sự vui mừng, xúc động của mọi người. Trước đó, không  bắt được liên lạc, nên mọi người cứ nghĩ sau vụ phản bội của Ba Tam, thuyền chở Sáu Nam cũng đã bị bắt...

Ngô Minh

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.