Viêm VA - khi nào cần nạo?

27/05/2005 16:27 GMT+7

VA là tên tắt từ tiếng Pháp Végétations Adénoides. Việt Nam ta gọi đây là sùi vòm họng, danh từ này đã áp dụng trong các bài giảng và nghiên cứu khoa học, tuy nhiên danh từ VA lại thông dụng hơn.

VA là mô tân bào gồm nhiều tế bào bạch cầu. VA nằm ở nóc vòm, sau cửa mũi sau. Khi thở vào, không khí vào mũi, qua VA rồi mới vào phổi. Bình thường VA có kích thước rất nhỏ, dày khoảng 4-5mm, không cản trở đường thở. VA tuy rất mỏng, nhưng xếp theo hình lá nên diện tiếp xúc với bên ngoài rất rộng. VA có từ lúc trẻ mới sinh nhưng rất nhỏ. Từ 6 tháng tuổi, VA phát triển dần theo nhiệm vụ miễn dịch; đến 9-10 tuổi, VA teo dần và chỉ còn vết ở tuổi dậy thì.

Nhiệm vụ của VA

VA cùng với amidan vòi, amidan hầu, amidan lưỡi tạo thành vòng Waldeyer có nhiệm vụ miễn dịch. Vòng này bao chung quanh đường thở và đường ăn. Tất cả các vi khuẩn vào từ mũi (đường thở) và từ miệng (đường ăn) đều phải xuyên qua vòng này.

Nhiệm vụ miễn dịch của VA: Khi không khí chứa vi khuẩn vào mũi, đi ngang qua VA trước khi vào phổi, vi khuẩn sẽ bám vào VA dễ dàng nhờ diện tiếp xúc rộng của VA. Các tế bào bạch cầu chực chờ sẵn, khi có vi khuẩn, bạch cầu sẽ “bắt” vi khuẩn và lôi chúng vào sâu, nơi có nhiều hạch để nhận diện vi khuẩn và tạo ra một chất gọi là kháng thể chống lại vi khuẩn. Kháng thể này được nhân rộng và tỏa đi khắp nơi, đặc biệt nhiều nhất là ở vùng mũi họng. Khi có vi khuẩn xâm nhập, các kháng thể này sẽ tự động vô hiệu hóa vi khuẩn và tiêu diệt ngay, trước khi chúng kịp sinh sôi và gây tác hại.

Triệu chứng của viêm VA

Nhiệm vụ của VA là miễn dịch nên thường xuyên tiếp xúc với vi khuẩn. Với tiếp xúc này, VA thường bị viêm, nhưng là viêm rất nhẹ, không ảnh hưởng đến sức khỏe cơ thể. Tuy nhiên khi sức đề kháng của cơ thể suy yếu, vi khuẩn tràn ngập quá nhiều sẽ xâm nhập toàn bộ VA, lúc này nếu bạch cầu không đủ sức “bắt” tất cả các vi khuẩn, chúng sẽ bám và cư trú tại VA, sinh sôi nảy nở và gây viêm VA, tức là viêm bệnh lý. Khi VA bị viêm, trẻ sẽ bị sốt, có thể lên tới 38-39 độ C. Ở trẻ thiếu sức đề kháng, ngoài sốt, trẻ còn có thể bị rối loạn tiêu hóa (nôn trớ, tiêu chảy, đau bụng…) và động kinh.

Triệu chứng do khối VA quá phát

Nếu viêm VA kéo dài, thể tích của VA sẽ tăng lên và ngăn cản không khí ra vào, khiến trẻ bị nghẹt mũi. Lượng nước có ở mũi không được bốc hơi đọng lại ngày càng nhiều và chảy ra phía trước, gây chảy mũi trong. Nếu tình trạng nghẹt mũi kéo dài, vi khuẩn cộng sinh trong mũi sẽ trở thành vi khuẩn gây bệnh. Nước mũi trong trở thành nước mũi đục và chảy ra rất nhiều, sau đó nước mũi trở thành màu xanh.

Sát bên VA có một lỗ thông vào tai giữa. Lỗ này được mở ra mỗi khi ta nuốt, ngáp, thổi phùng má v.v... Nhờ vậy mà tạo được sự cân bằng áp lực không khí ở tai giữa và bên ngoài, giúp chúng ta nghe tốt. VA viêm quá phát có thể bít tắc lỗ vòi này. Áp lực không khí ở tai giữa bị giảm, tai giữa xuất tiết dịch và trẻ nghe kém. Bệnh này gọi là viêm tai giữa thanh dịch.

Nếu VA to, không khí vào ít, không cung cấp đủ oxy cho cơ thể, trẻ sẽ trở nên lờ đờ; Phối hợp với nghe kém, việc học tập của trẻ sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Vì thiếu oxy nên trẻ ngủ không yên giấc, hay giật mình và mệt mỏi sau khi ngủ. Ban ngày thì lờ đờ, ngủ gà ngủ gật. Ban đêm thì ngủ không yên giấc. Trong trường hợp có viêm xoang kèm theo, nước mũi chảy ra như mủ.

Biến chứng của viêm VA

Viêm mũi: chảy mũi đục, nghẹt mũi, nhức mũi.

Viêm xoang: chảy mũi như mủ, nhức vùng má.

Viêm tai giữa thanh dịch: nghe kém, màng nhĩ không thủng.

Viêm tai giữa cấp: sốt, nhức tai, nghe kém, sau đó chảy mủ tai, thủng nhĩ.

Viêm amidan: 2 amidan to, nuốt khó, nuốt vướng, thỉnh thoảng lên cơn bộc phát cấp.

Viêm thanh quản: khó thở, ho, khàn tiếng, dễ dẫn đến tử vong.

Vẻ mặt VA: Khi trẻ bị VA quá phát lâu ngày mà không điều trị, mũi sẽ ít được sử dụng. Trong nhiều năm, chóp mũi trở nên nhỏ hơn, xương hàm trên phát triển kém, răng hàm trên mọc lởm chởm. Cằm có vẻ nhô ra và to hơn. Trẻ lúc nào cũng há miệng để thở vì mũi bị nghẹt.

Khi nào nên nạo VA?

VA có nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết cho cơ thể, đó là nhiệm vụ miễn dịch, phối hợp với các nhóm tân bào khác trong vòng Waldayer để tiêu diệt vi khuẩn khi chúng xâm nhập cơ thể. Chú ý không nên nạo VA bừa bãi, chỉ nạo VA trong các trường hợp sau đây:

- VA quá to, gây khó thở và viêm mũi.

- VA quá to, gây nghe kém, viêm tai giữa cấp.

- Viêm VA có một trong các biến chứng sau: viêm amiđan, viêm thanh quản cấp, rối loạn tiêu hóa, không tăng trọng.

Phương pháp nạo VA

Đây là thủ thuật đơn giản, có thể tiến hành nhanh gọn trong vài phút, ít gây biến chứng, hậu phẫu nhanh. Có thể nạo VA dưới gây tê hoặc gây mê.

(Theo SK&ĐS)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.