Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 5: Quyết tử

25/10/2014 06:00 GMT+7

(TNO) “Chiếm được Gạc Ma, phía Trung Quốc nhanh chóng làm nhà kiên cố nhiều tầng. Xong Gạc Ma, nó định đánh chiếm thêm vài đảo nữa, nhưng mình quyết tử ngăn chặn, nên nó không thực hiện được ý đồ”, đại tá Cao Ánh Đăng nói.


Đảo Gạc Ma đang được Trung Quốc xây dựng thành đảo nổi rộng lớn (năm 2014) - Ảnh: Đình Quân

>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 4: Những cuộc đối đầu căng thẳng
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 3: An Bang, Thuyền Chài giữa vòng vây
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 2: Chạm trán
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 1: Kiểm soát 'lá chắn của biển Đông'

Vẹn nguyên Đá Tây

Đại tá Vũ Huy Lễ (nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 649 Vận tải Trường Sa) nhớ lại sự kiện sáng 14.3.1988, khi đang là thiếu tá, thuyền trưởng chỉ huy tàu HQ-505 lao lên bãi cạn Cô Lin bảo vệ chủ quyền: “Xung quanh Gạc Ma rất sâu bởi vực biển cả nghìn mét, hôm ấy chúng tôi tìm vết dầu của tàu HQ-604 bị Trung Quốc bắn chìm, nhưng mãi không thấy!”. 

Quanh câu chuyện địa hình địa vật Gạc Ma, đại tá Cao Ánh Đăng (nguyên Phó tư lệnh Vùng 4 Hải quân) kể đầu năm 1986, Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương đã dự định đi khắp các đảo nổi, bãi đá ngầm ở Trường Sa để trực tiếp khảo sát nông sâu - điều kiện thủy văn.

Tuy nhiên, do điều kiện thời tiết bất thường, tàu thuyền cũ kỹ không đảm bảo an toàn chuyến đi, nên Tư lệnh Cương không thực hiện được kế hoạch. Công việc này được giao lại cho đại tá Đăng và chính ông Đăng đã có lần khảo sát tại Gạc Ma. 


Mít tinh phản đối Trung Quốc chiếm giữ một số đảo ở Trường Sa - Ảnh: Nguyễn Viết Thái

“Ngồi trên xuồng nhìn xuống cứ tưởng mắc cạn đến nơi, nhưng đưa dây đo sâu xuống mới biết là rất sâu và dây nghiêng lệch bởi dòng chảy xiết, ngầm bên dưới”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại.

Ông trầm ngâm: “Lúc ấy Trung Quốc tập trung nhiều tàu giả tàu cá ở khu vực Đá Tây. Đây là rạn san hô hình rẻ quạt, nằm theo hướng đông bắc - tây nam, diện tích khoảng 37 km vuông, ở giữa có một hồ lớn, rất thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền nghỉ ngơi - tránh trú bão và nhất là tôn tạo thành khu vực liên hoàn quốc phòng - kinh tế, trung tâm của Trường Sa. Chính vậy ta tập trung đóng giữ, khiến Trung Quốc phải từ bỏ ý định chiếm Đá Tây”.

Cầm chặt Len Đao - Cô Lin

Đêm 13.3.1988, trong khi đang chỉ huy củng cố phòng thủ Đá Đông, đại tá Nguyễn Văn Dân (lúc đó là trung tá, Phó tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân) được lệnh chỉ huy lực lượng trên tàu HQ-614, hành quân gấp lên phía đảo Sinh Tồn. Do bị 2 tàu chiến Trung Quốc quấy phá, chặn đường nên mãi trưa 14.3, tàu HQ-614 mới đến được đảo Sinh Tồn. Khi đó, các tàu HQ-604, HQ-605 đã bị bắn chìm, HQ-505 của thiếu tá Vũ Huy Lễ đã lao lên Cô Lin.

Chiều và đêm 14.3, tàu HQ-614 đưa anh em thương binh từ các đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin lên đảo Sinh Tồn để cứu chữa và báo cáo tình hình. Sáng 15.3, tàu HQ-614 ra vị trí tàu HQ-605, HQ-604 bị bắn chìm và theo vết dầu nổi lên, xác định được tàu HQ-605 chìm ở cạnh đảo Len Đao. Trưa 15.3, tàu HQ-614 vào khu vực Gạc Ma để tìm dấu vết tàu HQ-604, nhưng bị hai tàu khu trục của Trung Quốc ngăn cản, hung hãn đe dọa. 

 


Tàu HQ-505 trên bãi cạn Cô Lin (tháng 3.1988) - Ảnh: T.L

Đại tá Vũ Huy Lễ kể tàu HQ-614 neo gần chỗ tàu HQ-505 ở đảo Cô Lin, lập Sở Chỉ huy cụm 2 (Sinh Tồn) ngay trên tàu. Thời điểm này, ta chưa xây dựng được nhà ở trên Cô Lin và Len Đao, mà giữ chủ quyền Cô Lin bằng tàu HQ-505, giữ Len Đao bằng cờ cắm trên đảo và tàu trực HQ-614.

Liên tục trong thời gian dài, các tàu chiến Trung Quốc đe dọa, khiêu khích nhằm đẩy đuổi các tàu Việt Nam. Ban ngày, chúng kè sát bên quay nòng pháo như thể nhả đạn và bắc loa kêu gọi đích danh “thuyền trưởng Vũ Huy Lễ hãy đưa thủy thủ về bờ cho an toàn”, nhưng không dám đổ bộ chiếm đảo vì biết ta bố trí sẵn các tổ chiến đấu, sẵn sàng đánh trả, theo đại tá Lễ.

Nhiều đêm, tàu Trung Quốc tắt đèn, rì rì mò đến định dùng dây kéo tàu ta nhưng bị phát hiện. “Quân ta luôn bình thản, không mắc mưu khiêu khích của đối phương”, đại tá Vũ Huy Lễ khẳng định và cười: “Chúng tôi phân công hết rồi. Nếu nó nhảy sang, B40 sẽ bắn vào đài chỉ huy của tàu nó, còn AK cũng bắn mạnh luôn, mình có hy sinh thì nó cũng phải chết bao nhiêu đứa”... 

Tháng 9.1988 trở về đất liền, đại tá Dân đề xuất cách xây dựng đảo Len Đao với Tư lệnh Giáp Văn Cương: Len Đao có doi cát di chuyển theo mùa, khi thủy triều lên cao nhất là doi cát gần ngập. Nên kéo một tàu há mồm nhỏ ra, trên đó có sẵn nhà cao chân và các phương tiện lắp ghép.

Đại tá Dân đề nghị: “Buổi tối mình tập kết cạnh đảo, lúc thủy triều lên cao nhất thì mình đổ bộ, triển khai làm nhà luôn. Tàu Trung Quốc ở ngay đó, nhưng sẽ không kịp phản ứng, không có cớ để đánh mình”. Khoảng tháng 10-11.1988, lúc triều cường, việc xây dựng đảo Len Đao theo đề xuất của đại tá Dân được thực hiện thành công.

"Thiếu từ hạt gạo còn ngăn chặn được"

“Cái khó là Hải quân mình lúc đó còn yếu, không đánh lại nó nên phải khôn khéo để giữ. Đô đốc Giáp Văn Cương luôn dặn chúng tôi mưu mẹo trong giữ đảo”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại.

“Chiếm được Gạc Ma, phía Trung Quốc dùng kỹ thuật hiện đại và công binh hùng hậu, nhanh chóng làm nhà kiên cố nhiều tầng. Xong Gạc Ma, nó định đánh chiếm thêm vài đảo nữa, nhưng mình quyết tử ngăn chặn, nên nó mới không thực hiện được ý đồ”, ông Đăng khẳng định.

 
Chiến sĩ đảo Phan Vinh cảnh giác tàu Trung Quốc rập rình gần đảo (tháng 5.1988) - Ảnh: Nguyễn Viết Thái


Tư lệnh Giáp Văn Cương (đầu tiên, hàng 2) tham gia chào cờ với bộ đội đảo chìm Thuyền Chài (tháng 5.1988) - Ảnh: Nguyễn Viết Thái

Ít ai biết tháng 3.1988, phía Trung Quốc tung tin cho các Đài phát thanh nước ngoài “bắt sống 2 đại tá hải quân Việt Nam”, nhằm lung lạc ý chí bộ đội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Ngay sau đó, hai đại tá Lê Văn Thư (lúc đó là Tư lệnh Vùng 4 Hải quân) và Cao Ánh Đăng lập tức hành quân vào bờ, ra thẳng TP.Nha Trang tham gia cuộc họp báo, tố cáo hành vi chiếm đóng trái phép của Trung Quốc trước các phóng viên báo chí - hãng thông tấn trong và ngoài nước, xong lại ra ngay Trường Sa chỉ huy bộ đội củng cố, xây dựng các đảo.

“Hồi ấy thiếu từ hạt gạo cho đến miếng nước, mà chúng tôi còn ngăn chặn được âm mưu thôn tính của đối phương trang bị hiện đại, đông quân. Nữa là bây giờ, Hải quân ta đã chính quy - tinh nhuệ và hiện đại, thừa sức đập tan mọi hành động xâm phạm chủ quyền thiêng liêng Tổ quốc”, vị đại tá già trầm giọng, hướng mắt sang phía bên kia bờ vịnh. Nơi ấy Quân cảng Cam Ranh ken dày tàu pháo, tàu tên lửa, tàu ngầm hướng mũi sẵn sàng hướng ra địa đầu Tổ quốc: Trường Sa... (Còn tiếp).

“Năm 1988, ta cố gắng rất lớn nhưng cũng không xuể bởi phương tiện tàu thuyền thô sơ, ngay việc đi ra đến đúng đảo cũng chỉ nhờ kinh nghiệm. Ý chí, quyết tâm rất lớn, nhưng tiềm lực, khả năng hạn chế. Quần đảo Trường Sa quá rộng, các điểm đảo cách nhau rất xa, mình chủ trương đóng giữ tất cả các đảo, nhưng phải chú ý đóng giữ các đảo lớn, bãi chìm lớn trước, bãi nhỏ sau. Nhiệm vụ của tôi là xây dựng xong 2 nhà cao chân trên Đá Đông, thì lên Ga Ven, làm xong nhà ở Ga Ven, nếu còn lực lượng, phương tiện - vật liệu thì mới giải quyết nốt điểm Chữ Thập… Nhiều người thắc mắc sao mình không đánh lại ở Gạc Ma. Thực ra, mình không có phương tiện để đánh. Như tàu HQ-605, có 2 bệ pháo 40 ly của Mỹ đã cũ, bắn chắc gì đạn đã nổ. Thứ hai, tàu Trung Quốc nó đậu cách mấy hải lý, nó dùng pháo lớn bắn mình. Mình bắn lại, cũng không với tới. Trung Quốc muốn có chủ quyền bằng sức mạnh. Nếu lúc đó mình đưa tàu chiến ra, tình hình trở nên phức tạp hơn. Có thể xảy chiến tranh khốc liệt, hy sinh của mình lớn hơn. Vì Trung Quốc có phương tiện đầy đủ hơn. Nó đánh từ xa, phóng tên lửa từ xa, từ tàu tuần dương, tàu khu trục cỡ lớn”...

(Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó tham mưu trưởng Vùng 4)

Năm 1975, Việt Nam đóng giữ 5 đảo ở quần đảo Trường Sa gồm: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa.

Năm 1978, Việt Nam đóng giữ thêm 4 đảo: An Bang (10.3.1978), Sinh Tồn Đông (15.3.1978), Phan Vinh (30.3.1978), Trường Sa Đông (4.4.19878). Tổng cộng đến 1978, ta đóng giữ 9 đảo nổi ở quần đảo Trường Sa.

Ngày 5.3.1987, Hải quân Việt Nam đóng giữ đảo Thuyền Chài.

Trong chiến dịch CQ-88, trước ngày 14.3.1988, ta đóng giữ thêm 7 đảo: Đá Tây (2.12.1987), Tiên Nữ (25.1.1988), Đá Lát (5.2.1988), Đá Đông (19.2.1988), Đá Lớn (20.2.1988), Tốc Tan (27.2.1988), Núi Le (28.2.1988).

Ngày 14.3.1988, ta đóng giữ thêm đảo Len Đao và đảo Cô Lin.

Ngày 15.3.1988, chỉ 1 ngày sau sự kiện 14.3.1988, ta không lấy lại được Gạc Ma, nhưng đóng giữ thành công đảo Đá Thị, một vị trí rất quan trọng ở cụm đảo Nam Yết.

Ngày 16.3.1988, ta tiếp tục đóng giữ đảo Đá Nam. Tổng cộng trong chiến dịch CQ-88, ta đóng giữ 11 đảo chìm.

Tháng 11.1988, Hải quân Việt Nam bắt đầu đóng giữ, bảo vệ khu vực DK1 ở thềm lục địa phía Nam Tổ quốc.

Mai Thanh Hải

>> Loạt bài '25 năm hải chiến Trường Sa' của TNO giành giải A báo chí quốc gia
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 5: Mùa xuân nhớ con anh hùng
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 4: Cuộc trở về của Nguyễn Văn Lanh
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 3: 1.000 ngày bị địch bắt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 2: Anh hùng đất Việt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 1: Cuộc xâm lược của Trung Quốc

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.